NGẢI CỨU
Herba Artemisiae vulgaris
Thân mang ngọn và lá đã phơi hay
sấy khô của cây Ngải
cứu (Artemisia vulgaris L.), họ Cúc (Asteraceae).
Mô tả
Thân mang ngọn dài không quá 30 cm, có khía
dọc, màu vàng nâu hay nâu xám, có lông tơ. Lá mọc so le, có
cuống hoặc không, thường nhăn nheo, cuộn vào
nhau. Lá có nhiều dạng: Lá trên ngọn nguyên, hình mác; lá
phía dưới xẻ lông chim một hoặc hai lần.
Mặt trên lá màu xám đến xanh đen, nhẵn hay có
rất ít lông tơ, mặt dưới lá màu tro trắng, có
rất nhiều lông tơ trắng như mạng nhện
nằm dẹp, cụm hoa đầu, gồm nhiều hoa
hình ống.
Vi phẫu
Lá: Phần gân lá: Gân chính lồi lõm ở
cả 2 phía trên và dưới. Biểu bì trên và biểu bì dưới
gồm một hàng tế bào hình trứng và đều mang 2
loại lông che chở đa bào: lông đa bào một dãy và
lông đa bào hình chữ T (đầu lông có 1 tế bào hình
thoi nằm ngang, chân lông đa bào đính vào giữa tế
bào hình thoi). Sát lớp biểu bì là đám mô dày gồm 2-3
hàng tế bào có thành dày ở góc. Mô mềm gồm các tế
bào hình gần tròn hoặc hình nhiều cạnh, thành
mỏng, tương đối đều. Có 3 đến 5
bó libe-gỗ rời nhau xếp thành hình cung cân đối: bó
ở giữa to nhất, các bó hai bên nhỏ dần (cấu
tạo libe-gỗ chồng kép). Libe gồm những tế
bào nhỏ hình đa giác xếp bao lấy gỗ, các
mạch gỗ xếp thành hàng tương đối
đều đặn.
Phần phiến lá: Biểu bì trên và
biểu bì dưới gồm 1 hàng tế bào có kích
thước lớn hơn tế bào ở phần gân lá,
mang lông che chở đa bào. Biểu bì dưới mang
lỗ khí nhô hẳn ra ngoài biểu bì. Dưới lớp
biểu bì trên có 1 lớp mô giậu gồm 1 hàng tế bào
hình chữ nhật, xếp vuông góc với biểu bì,
kế đến là mô khuyết.
Thân: Mặt cắt ngang có hình gần như
đa giác do có nhiều chỗ lồi, từ ngoài vào trong
có: Biểu bì gồm 1 hàng tế bào nhỏ hình trứng,
mang lông che chở đa bào 1
dãy và lông đa bào hình chữ T. Đám mô dày tập trung
ở các chỗ lồi. Mô mềm vỏ gồm các tế
bào thành mỏng xen kẽ giữa các đám mô dày. Từng
đám mô cứng hình thoi (hai đầu nhỏ, ở
giữa phình to) nằm úp lên phần libe của các bó libe-
gỗ. Tầng phát sinh libe - gỗ và libe tạo thành vòng. Gỗ
và đám mô cứng phía ngoài libe tạo thành bó tròn, tập
trung nhiều ở các chỗ lồi. Mô mềm ruột
cấu tạo bởi những tế bào thành mỏng, các
tế bào phía ngoài hình tròn hay đa giác; ở giữa bị
kéo dài ra, phần trung tâm các tế bào tròn và to hơn.
Bột
Lông che chở (bị gẫy hoặc còn
nguyên) đa bào hoặc đa bào hình chữ T (đầu
đơn bào hình thoi, chân lông đa bào một dãy). Lông
tiết: Đầu có một tế bào, chân có 3 tế bào.
Mảnh biểu bì thân gồm tế bào hình chữ nhật.
Mảnh biểu bì lá gồm tế bào có thànhmỏng, nhăn
nheo. Lỗ khí thường tách rời khỏi biểu bì và
đứng riêng lẻ. Sợi dài, thành hơi dày,
đứng riêng lẻ hoặc tụ họp thành từng
đám. Tế bào mô cứng hình trái xoan thànhdày, khoang
rộng, có ống trao đổi rõ. Mảnh mạch
điểm, mạch vạch, mạch xoắn.
Định tính
A. Lấy 5 g dược liệu đã cắt nhỏ
cho vào bình có nón nút mài dung tích 50 ml, thêm khoảng 30 ml nước, đun sôi 3 - 5
phút. Gạn lấy dịch chiết nước vào chén
sứ, cô còn khoảng 1 ml. Thêm 5 ml ethanol 96% (TT),
lọc qua giấy lọc được dung dịch A
để làm các phản ứng sau:
Phản ứng 1: Nhỏ vào 3 lỗ
của khay sứ trắng, mỗi lỗ 3 giọt dung
dịch A, lần lượt làm
như sau:
Lỗ 1: Thêm 1 giọt dung
dịch sắt (III) clorid 5% (TT), dung dịch chuyển màu
xanh đen.
Lỗ 2: Thêm 1 giọt dung
dịch natri hydroxyd 10% (TT), xuất hiện tủa màu
vàng, tủa tan trong lượng thừa thuốc thử.
Lỗ 3: Thêm 1 giọt thuốc
thử Diazo (TT) và 2 giọt dung
dịch natri hydroxyd 10% (TT), xuất hiện màu đỏ
tươi.
Phản ứng 2: Nhỏ 2 - 3 giọt
dung dịch A lên một tờ giấy lọc, để
khô. Quan sát dưới ánh sáng tử ngoại ở
bước sóng 366 nm, thấy huỳnh quang vàng lục. Tiếp
xúc với hơi amoniac, xuất hiện màu vàng tươi.
B.Phương pháp sắc ký lớp mỏng (Phụ
lục 5.4).
Bản mỏng: Silica gel G
Dung môi khai triển: Toluen - ethyl acetat - aceton - acid formic (15 : 2 : 2 : 1).
Dung dịch thử: Lấy 2 g dược liệu đã
cắt nhỏ, thêm 30 ml ethyl
acetat (TT), lắc đều, ngâm trong 1 giờ. Gạn
lấy dịch chiết ethyl acetat, cô trên cách thuỷ
đến cạn. Hoà cắn trong 1 ml ethanol 96% (TT).
Dung dịch đối chiếu: Lấy 2 g Ngải cứu (mẫu chuẩn)
đã cắt nhỏ, tiến
hành chiết như dung dịch thử.
Cách tiến hành: Chấm riêng biệt lên bản mỏng 25 µl mỗi dung
dịch trên. Triển khai sắc ký đến khi dung môi
đi được khoảng 10 - 12 cm, lấy bản
mỏng ra, để khô ở nhiệt độ phòng, phun
hỗn hợp dung dịch acid boric 10% - acid oxalic 10% (2 : 1), sấy ở 100 oC trong 5 phút rồi
soi bản mỏng dưới đèn tử ngoại ở
bước sóng 366 nm. Trên sắc ký đồ của dung
dịch thử phải có các vết phát quang có cùng màu
sắc và giá trị Rf với các vết trên sắc
ký đồ của dung dịch đối chiếu.
Độ ẩm
Không quá 13% (Phụ lục 12.13).
Tro toàn phần
Không quá 15% (Phụ lục 9.8).
Tro không
tan trong acid
Không quá 1,5% (Phụ lục 9.7)
Tạp chất (Phụ
lục 12.11)
Tỷ lệ thân và cành: Không
quá 35%.
Tạp
chất khác: Không quá 0,5%
Tỷ lệ vụn nát
Qua rây có kích thước mắt rây 4 mm:
Không quá 5% (Phụ lục 12.12).
Định lượng
Tiến hành theo phương pháp
định lượng tinh dầu trong dược
liệu (Phụ lục 12.7). Dùng 40 g dược liệu
đã cắt nhỏ, thêm 200 ml nước,
cất trong 3 giờ. Hàm lượng tinh dầu không ít
hơn 0,25%.
Chế biến
Thường
thu hái vào tháng 5 - 6 (lúc chưa ra hoa), chặt lấy
đoạn cành dài không quá 40 cm, mang nhiều lá, loại
bỏ tạp chất, phơi âm can hay sấy nhẹ
tới khô.
Bào chế
Ngải
cứu khô: Loại bỏ tạp chất và cành, rây bỏ
chất vụn, thu được Ngải diệp, rửa
qua nước cho mềm, thái ngắn, phơi khô.
Ngải thán
(hoặc Thố Ngải thán): Chọn Ngải diệp
sạch cho vào nồi sao to lửa đến khi đa
phần (khoảng 7 phần 10) chuyển thành màu đen,
trộn đều với giấm, sao khô hoặc lấy ra
phơi ở chỗ mát 2 - 3 ngày cho khô. Cứ 100 kg lá
Ngải cứu dùng 15 lít giấm.
Ngải nhung
dùng để (châm) cứu: Lá Ngải cứu sạch
phơi khô, sao qua, để cho mềm, cho vào cối giã
kỹ, khi nào mịn như nhung là được, bỏ
xơ và bột vụn.
Bảo quản
Để
nơi khô, thoáng mát.
Tính vị, quy kinh
Khổ, tân, ôn.
Vào các kinh can, tỳ, thận.
Công năng, chủ trị
Chỉ
huyết, trừ hàn thấp, điều kinh, an thai. Chủ
trị: Kinh nguyệt không đều, băng huyết, rong
huyết, thổ huyết, khí hư bạch đới,
động thai, viêm ruột, lỵ.
Cách dùng, liều lượng
Ngày dùng 6 - 12 g,
dạng thuốc sắc.
Dùng ngoài
trị đau do sang chấn: Lấy Ngải cứu tươi,
rửa sạch, giã, đắp nơi đau với
liều thích hợp.
Kiêng kỵ
Âm hư
huyết nhiệt, không nên dùng.